Offenbar hast du diese Funktion zu schnell genutzt. Du wurdest vorübergehend von der Nutzung dieser Funktion blockiert.

Liệt sĩ Nguyễn Ánh Dương. Ảnh do gia đình cung cấp

Tháng 2-1973, Ban chỉ huy Tiểu đoàn 1 chuyển về đóng quân tại xã Triệu Trạch, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Lúc đó, anh Dương là Tiểu đoàn trưởng. Lán của tiểu đội thông tin chúng tôi cách lán của anh Dương khoảng 300m nên tôi thường được gặp anh. Tôi không thể quên lần cuối gặp anh. Đó là vào một buổi tối tháng 11-1974, tôi được thông báo sáng sớm hôm sau đến gặp Tiểu đoàn trưởng Dương, khi đi mang theo ba lô và nhớ trao lại khẩu AK-47 cho tiểu đội trưởng. Đêm đó, tôi lo lắng không biết có chuyện gì xảy ra. Sáng hôm sau, tôi đến gặp anh Dương, anh nói với tôi một cách trìu mến: “Đồng chí được giao nhiệm vụ mới”, rồi đưa cho tôi một tập hồ sơ gồm có giấy thuyên chuyển công tác và bản đánh giá toàn bộ quá trình công tác của tôi ở mặt trận. Anh nói: “Đi mạnh khỏe và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ nhé!” rồi bắt tay tôi. Hai ngày sau, từ Đông Hà, xe đưa tôi ra Bắc.

Khi các đồng đội của tôi tiến vào Dinh Độc Lập ngày 30-4-1975 thì ở miền Bắc, tôi đang miệt mài với sách vở. Mãi đến năm 1977, khi đang học đại học dự bị tại Trường Đại học Tổng hợp Karl Marx ở Leipzig (Cộng hòa dân chủ Đức), tôi nhận được thư của ba tôi có kèm thư của anh Lê Chiến, Trợ lý Quân lực Sư đoàn 325- đồng hương với tôi, báo tin Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Ánh Dương đã hy sinh ngay trước cửa ngõ Sài Gòn. Lúc ấy, lòng tôi đau xót như mất đi một người thân.

Cuối năm 1981, sau khi tốt nghiệp đại học ở Cộng hòa dân chủ Đức,  tôi về nước, bắt đầu hành trình đi tìm các đồng đội đã đồng cam cộng khổ năm xưa và qua họ, tôi muốn biết nhiều hơn về hoàn cảnh gia đình của anh Dương cũng như khoảnh khắc mà người chỉ huy của chúng tôi hy sinh.

Theo lời kể của các cựu chiến binh, trong đó có anh Hồ Duy Thiện, nguyên Trợ lý Tuyên huấn Trung đoàn 101, tháng 4-1975, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 101 do anh Nguyễn Ánh Dương chỉ huy, cùng các đơn vị của Quân đoàn 2 hành quân thần tốc tiến về Sài Gòn. Trên đường hành quân, anh Hồ Duy Thiện đi cùng xe với anh Dương nên được anh kể nhiều chuyện về gia đình. Anh tâm sự, cha mẹ anh mất sớm, vợ và con thì đang ốm nặng... nhưng không vì thế mà anh thoái thác nhiệm vụ. Thi thoảng có điều kiện, anh viết thư về động viên vợ con, người thân và nhờ mọi người giúp đỡ để anh yên tâm chiến đấu. Khi Chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu, Quân đoàn 2 từ hướng Đông Nam Sài Gòn tiến công các căn cứ địch ở Biên Hòa, Nước Trong, Long Thành... Tiểu đoàn 1 và Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 101) triển khai đánh sâu vào khu vực quận lỵ thì gặp phải sự kháng cự quyết liệt của địch ở Chi khu Long Thành. Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Ánh Dương chỉ huy Tiểu đoàn 1 làm mũi thọc sâu, cùng với 5 xe tăng T54 đột phá, đánh chiếm quận lỵ Long Thành thắng lợi, mở đường cho các đoàn quân tiến về giải phóng thành phố. Trong khi truy quét tàn binh địch, Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Ánh Dương bị địch bắn lén và hy sinh.

Gần 50 năm trôi đi, anh Đặng Đình Đán, quê ở Thái Bình kể với tôi rằng, anh đã đến thăm gia đình anh Dương ở xã Hồng Việt, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình nhiều lần. Lúc hy sinh, anh Dương mới 37 tuổi, để lại người vợ hiền là chị Nguyễn Thị Mến, con gái lớn là Nguyễn Thị Song-13 tuổi và con gái út Nguyễn Thị Xuyến mới 3 tuổi. Chị Mến không đi bước nữa, ở vậy nuôi con, đến nay hai cháu đều đã trưởng thành.

Việt Nam Trước Năm 1975: Bức Tranh Theo Thời Gian Về Các Tỉnh Phân Chia

Trước năm 1975, Việt Nam là một dải đất trải dài với lịch sử phong phú, trải qua nhiều giai đoạn phân chia và thống nhất. Trong phần lớn thời gian của thế kỷ 20, đất nước bị chia cắt thành hai thực thể chính trị: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc và Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam.

Mặc dù không có thông tin chính xác được cung cấp trong văn bản về số lượng tỉnh của Việt Nam trước năm 1975, nhưng các nguồn lịch sử cho thấy sự phân chia hành chính của đất nước liên tục thay đổi trong suốt giai đoạn này.

Trong những năm đầu của thế kỷ 20, Việt Nam là một thuộc địa của Pháp và được chia thành các thành phố trực thuộc trung ương và các tỉnh. Sau Thế chiến thứ II, Việt Nam giành được độc lập và đất nước được chia thành hai vùng khác nhau: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (miền Bắc) và Quốc gia Việt Nam (miền Nam).

Năm 1954, sau Hiệp định Genève, Việt Nam tạm thời bị chia thành hai miền: miền Bắc do Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiểm soát và miền Nam do Quốc gia Việt Nam kiểm soát. Trong giai đoạn này, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có 16 tỉnh, trong khi Quốc gia Việt Nam có 26 tỉnh.

Năm 1955, Quốc gia Việt Nam sáp nhập Đảo Phú Quốc, nâng tổng số tỉnh lên 27. Trong những năm tiếp theo, cả Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Quốc gia Việt Nam đều trải qua nhiều lần điều chỉnh ranh giới hành chính, bao gồm cả việc thành lập và giải thể các tỉnh mới.

Sau thống nhất đất nước năm 1975, Việt Nam có tổng cộng 72 tỉnh/thành phố. Tuy nhiên, quá trình sáp nhập các tỉnh đã diễn ra vào năm 1978, giảm số lượng xuống còn 38. Trong những năm sau đó, Việt Nam tiếp tục điều chỉnh ranh giới hành chính, với việc thành lập và bãi bỏ các đơn vị hành chính mới.

Ngày nay, Việt Nam có 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, phản ánh sự thay đổi liên tục trong hệ thống phân chia hành chính của đất nước trong suốt chiều dài lịch sử.

Offenbar hast du diese Funktion zu schnell genutzt. Du wurdest vorübergehend von der Nutzung dieser Funktion blockiert.

Wenn dies deiner Meinung nach nicht gegen unsere Gemeinschaftsstandards verstößt,