Chính Sách Hỗ Trợ Giảm Nghèo
QĐND - Công cuộc giảm nghèo của Việt Nam giai đoạn 2011-2015 đã đạt được mục tiêu đề ra, tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo hiện còn 9-10%, trong đó dưới 5% hộ nghèo. Tuy nhiên, quá trình thực hiện cũng bộc lộ một số hạn chế về chính sách cho người nghèo. Được biết, trong thời gian tới, Nhà nước sẽ đưa giải pháp mới tiếp cận nghèo theo hướng đa chiều. Để hiểu rõ hơn nội dung này, phóng viên Báo Quân đội nhân dân đã có cuộc trao đổi với ông Ngô Trường Thi, Vụ trưởng, Chánh văn phòng Quốc gia về giảm nghèo (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội).
Nhiều chính sách hỗ trợ, chăm lo cho người nghèo
Cập nhật ngày: 01/10/2024 05:31:13
ĐTO - Thời gian qua, huyện Hồng Ngự tập trung các giải pháp phát huy hiệu quả Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện. Thông qua công tác hỗ trợ vốn vay, đào tạo nghề, giải quyết việc làm và triển khai nhiều mô hình giảm nghèo gắn với thực hiện các chính sách an sinh xã hội... góp phần giúp nhiều hộ nghèo, cận nghèo có điều kiện phát triển kinh tế, từng bước vươn lên ổn định đời sống.
Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Thường Lạc (huyện Hồng Ngự) trao tặng thẻ bảo hiểm y tế cho hội viên có hoàn cảnh khó khăn tại địa phương
Để thực hiện đạt mục tiêu giảm nghèo bền vững, hạn chế tái nghèo và không phát sinh nghèo mới, UBND huyện chỉ đạo các phòng, ban, ngành huyện, UBND xã, thị trấn lồng ghép công tác giảm nghèo với thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới, Chương trình đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng; kế hoạch đào tạo nghề cho người lao động nông thôn và giải quyết việc làm sau đào tạo.
Trên cơ sở kết quả điều ra hộ nghèo đa chiều đầu giai đoạn 2022 - 2025, Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp, hướng dẫn các xã, thị trấn lập danh sách cụ thể theo các chiều thiếu hụt và đề ra giải pháp hỗ trợ, giúp đỡ họ tiếp cận các nguồn lực để vươn lên thoát nghèo theo từng năm. Cùng với đó, tập trung hỗ trợ người nghèo tiếp cận đầy đủ các dịch vụ xã hội cơ bản như: việc làm, giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch. Đồng thời thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, hướng dẫn hộ nghèo cách làm ăn, tạo môi trường thuận lợi để hộ nghèo, cận nghèo phát triển kinh tế.
UBND huyện chỉ đạo UBND các xã, thị trấn khảo sát những hộ nghèo, cận nghèo có ý chí vươn lên thoát nghèo và hộ mới thoát nghèo chí thú làm ăn, lập hồ sơ hỗ trợ nguồn vốn từ Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững. Đồng thời chỉ đạo Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp các ngành huyện, UBND cấp xã thẩm định và cho hộ gia đình cam kết sử dụng nguồn vốn vay đúng mục đích. Bên cạnh nguồn vốn được tỉnh hỗ trợ, huyện Hồng Ngự còn đẩy mạnh công tác hỗ trợ vốn cho vay giải quyết việc làm cho hộ nghèo, cận nghèo, hộ mới thoát nghèo từ nguồn ngân sách địa phương.
Hàng năm, UBND các xã, thị trấn rà soát danh sách hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo đang quản lý; phối hợp Phòng Giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội huyện thẩm định hồ sơ các đối tượng đủ điều kiện nhằm kịp thời hỗ trợ vốn vay. Từ năm 2021 đến nay, toàn huyện có 3.741 hộ nghèo, cận nghèo, hộ mới thoát nghèo vay hơn 206 tỷ đồng để sản xuất, chăn nuôi... góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống.
Cùng với cấp ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội trên địa bàn huyện tích cực triển khai nhiều hoạt động đảm bảo an sinh xã hội, hỗ trợ người nghèo của địa phương. Phát huy vai trò của các cấp Hội trong việc hỗ trợ hội viên, phụ nữ nghèo phát triển kinh tế, Hội Liên hiệp Phụ nữ (LHPN) huyện Hồng Ngự và các cơ sở Hội hỗ trợ cho 708 hội viên, phụ nữ tiếp cận nguồn vốn vay hơn 5,5 tỷ đồng từ Quỹ hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế của Hội LHPN tỉnh. Bên cạnh đó, các cấp Hội trên địa bàn huyện duy trì hiệu quả 39 Tổ phụ nữ góp vốn xoay vòng giúp nhau phát triển kinh tế gia đình, với 644 thành viên. Từ đầu năm 2024 đến nay, các tổ đã huy động được gần 934 triệu đồng và giúp đỡ vốn không lãi suất cho 442 thành viên.
Theo đồng chí Nguyễn Thị Cẩm Vân - Chủ tịch Hội LHPN huyện Hồng Ngự, ngoài việc hỗ trợ hội viên, phụ nữ nghèo được vay, mượn vốn, các cấp Hội thường xuyên chia sẻ những kinh nghiệm trong lĩnh vực chăn nuôi, trồng trọt và kinh doanh; tổ chức dạy nghề, truyền nghề, giới thiệu việc làm với thu nhập ổn định. Đến tháng 9/2024, Hội LHPN huyện phối hợp Trung tâm giáo dục nghề nghiệp huyện mở 8 lớp đào tạo nghề phi nông nghiệp cho 197 hội viên, phụ nữ thuộc hộ nghèo, cận nghèo; giới thiệu việc làm với thu nhập bình quân từ 3,5 triệu - 5 triệu đồng/tháng cho trên 150 lượt hội viên, phụ nữ. Đồng thời, các cấp Hội trong huyện còn vận động kinh phí xã hội hóa gần 3 tỷ đồng trao tặng hơn 6.400 suất quà cho hội viên, phụ nữ nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn, góp phần nâng cao hiệu quả công tác giảm nghèo ở địa phương.
Theo UBND huyện Hồng Ngự, nhờ sự chung tay của cả hệ thống chính trị, triển khai kịp thời những chính sách hỗ trợ từ Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo của huyện qua từng năm. Năm 2021, toàn huyện có 1.624 hộ nghèo, chiếm 4,43%. Ước đến cuối năm 2024, hộ nghèo giảm còn 721 hộ, chiếm 1,98% (bình quân hàng năm giảm từ 0,76 - 1,29%).
Đồng chí Huỳnh Văn Tài - Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy, Phó Chủ tịch UBND huyện Hồng Ngự cho biết: “Với quyết tâm thực hiện công tác giảm nghèo bền vững, thời gian tới, huyện Hồng Ngự đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động hộ nghèo, cận nghèo nâng cao nhận thức tự lực vươn lên thoát nghèo; tích cực tham gia học nghề, tìm việc làm và nâng cao thu nhập. Bên cạnh đó, UBND huyện, các đơn vị trực thuộc tiếp tục thực hiện tốt chính sách hỗ trợ vốn vay, phát huy hiệu quả các mô hình, dự án giảm nghèo. Huy động các nguồn lực triển khai các hoạt động an sinh xã hội, nhất là chăm lo giúp hộ nghèo, cận nghèo ổn định cuộc sống, vươn lên thoát nghèo”.
Xóa đói, giảm nghèo là mục tiêu xuyên suốt, quan trọng hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình xây dựng đất nước. Quan điểm, chủ trương của Đảng về xóa đói giảm nghèo đã được thể hiện trong Văn kiện Đại hội Đảng qua nhiều thời kỳ, ngày càng sâu rộng, toàn diện hơn. Trong giai đoạn 2016-2022, thực hiện các chương trình xóa đói giảm nghèo theo các quan điểm, chủ trương của Đảng như: Nghị quyết số 76/2014/QH13 về đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2020 và chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020, giai đoạn 2021-2025. Việt Nam là một trong 30 quốc gia đầu tiên trên thế giới và là quốc gia đầu tiên của châu Á áp dụng chuẩn nghèo đa chiều, bảo đảm mức sống tối thiểu và thiếu hụt tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản (6 chiều về việc làm; y tế, giáo dục; nhà ở; nước sinh hoạt và vệ sinh; thông tin). Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận trong công tác xóa đói giảm nghèo.
Theo kết quả Khảo sát mức sống dân cư, tỷ lệ hộ nghèo đa chiều liên tục giảm trong giai đoạn 2016-2022. Tỷ lệ hộ nghèo đa chiều năm 2022 là 4,3%, giảm 0,1 điểm phần trăm so với năm 2021 và giảm bình quân 0,81 điểm phần trăm trong giai đoạn 2016-2022.
Hình 1: Tỷ lệ nghèo đa chiều và tỷ lệ giảm nghèo ở Việt Nam giai đoạn 2016-2022
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2022
Tỷ lệ nghèo đa chiều chủ yếu tập trung ở những hộ gia đình thuộc vùng dân tộc thiểu số. Kết quả thực hiện xóa đói giảm nghèo ở các Vùng dân tộc thiểu số đạt được những thành tựu lớn. Khoảng cách về tỷ lệ nghèo đa chiều giữa dân tộc Kinh, dân tộc Hoa và các dân tộc thiểu số khá lớn nhưng đã được thu hẹp dần trong giai đoạn 2016-2022 dưới tác động của hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật về giảm nghèo được Chính phủ ban hành khá đồng bộ, toàn diện để hỗ trợ người nghèo. Đó là các chính sách giảm nghèo đặc thù, ưu tiên đối với các đối tượng yếu thế, vùng đồng bào dân tộc, vùng đặc biệt khó khăn; từng bước giảm dần và bãi bỏ những chính sách hỗ trợ cho không, tăng chính sách hỗ trợ có điều kiện. Trong giai đoạn 2016-2022, tỷ lệ nghèo đa chiều tại các vùng dân tộc thiểu số giảm khá nhanh so với dân tộc Kinh, dân tộc Hoa và cả nước. Trong năm 2022, tỷ lệ nghèo đa chiều tại các vùng dân tộc thiểu số là 23,7%, giảm 12,8 điểm phần trăm so với năm 2016, bình quân mỗi năm trong giai đoạn 2016-2022 giảm 2,13 điểm phần trăm; dân tộc Kinh và dân tộc Hoa có tỷ lệ nghèo đa chiều là 2%, giảm 2,8 điểm phần trăm và bình quân mỗi năm giảm 0,47 điểm phần trăm.
Hình 2: Tỷ lệ nghèo đa chiều theo nhóm dân tộc giai đoạn 2016-2022
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2022
Một số địa phương có tỷ lệ nghèo đa chiều còn cao do trình độ sản xuất thấp, hệ thống hạ tầng cho phát triển kinh tế còn nghèo nàn lạc hậu, sản xuất chủ yếu bằng các nghề thủ công và tự cung tự cấp. Tính theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2016-2021[1], Điện Biên có tỷ lệ nghèo đa chiểu cao nhất là 34,5%, bình quân mỗi năm giảm 3,88 điểm phẩn trăm; Lai Châu là 2,9%, giảm 3,28 điểm phần trăm; Hà Giang là 25%, giảm 2,94 điểm phần trăm; Sơn La là 23,9%, giảm 2,84 điểm phần trăm; Kon Tum là 20,6%; giảm 2,67 điểm phần trăm; Gia Lai 22,7%, giảm 2,66 điểm phần trăm…. Theo chuẩn nghèo đa chiều mới theo Nghị định 07/2021/NĐ-CP, các tỉnh có tỷ lệ nghèo đa chiều cao nhất cả nước là: Hà Giang 37,9%; Lai Châu 28,6%; Điện Biên 27,8%; Sơn La 23,9%; Gia Lai 22,7%; Cao Bằng 20,1% …
Tại các Vùng kinh tế – xã hội, công tác xóa đói giảm nghèo đạt được những kết quả đáng ghi nhận khi tất cả 6 vùng kinh tế đều có tỷ lệ nghèo đa chiều giai đoạn 2016-2021 giảm hàng năm, đặc biệt tại các vùng khó khăn, có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống. Vùng Trung du và miền núi phía Bắc, nơi tập trung nhiều dân tộc thiểu số sinh sống có thành tựu giảm nghèo nhanh nhất cả nước khi tỷ lệ nghèo đa chiều năm 2021 là 12,1%, giảm 9,6 điểm phần trăm so với năm 2016 và bình quân mỗi năm trong giai đoạn 2016-2021 giảm 1,92 điểm phần trăm; tiếp đến là vùng Tây Nguyên là 10,1%, giảm 8,5 điểm phần trăm so với năm 2016 và bình quân mỗi năm giảm 1,69 điểm phần trăm; xếp thứ 3 là vùng Bắc trung Bộ và Duyên hải miền Trung là 5,7% giảm 5,8 điểm phần trăm và bình quân mỗi năm giảm 1,17 điểm phần trăm; vùng Đồng bằng Sông Cửu Long là 3,8%, giảm 4,8 điểm phần trăm và bình quân mỗi năm giảm 0,96 điểm phần trăm; 2 vùng Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ có tỷ lệ nghèo đa chiều thấp nhất cả nước lần lượt là 1,2% và 0,2%, giảm so với năm 2016 lần lượt là 1,8 điểm phần trăm và 0,7 điểm phần trăm, bình quân mỗi năm giảm lần lượt là 0,37 điểm phần trăm và 0,15 điểm phần trăm.
Theo cách tiếp cận mới về nghèo đa chiều của Chính phủ cho giai đoạn 2022-2025[2], có sự khác biệt và khoảng cách lớn giữa các vùng có trình độ kinh tế phát triển và Vùng núi, cao nguyên. Năm 2022, tỷ lệ nghèo đa chiều tại Vùng Trung du và miền núi phía Bắc cao nhất trong các Vùng kinh tế với 12,1%; tiếp đến là Vùng Tây Nguyên 11,4%; Vùng Bắc trung Bộ và Duyên hải miền trung 5%; Vùng Đồng bằng sông Cửu Long 4,7%; Vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Hồng là nơi tập trung các địa phương có trình độ phát triển kinh tế cao của cả nước và các khu công nghiệp lớn, thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước nên tỷ lệ nghèo đa chiều tại 2 vùng này rất thấp, tương ứng là 0,7% và 0,9%.
Bên cạnh những thành tựu đạt được trong công tác xóa đói giảm nghèo, Đảng, Nhà nước và các Bộ, ngành thường xuyên có những chính sách hỗ trợ các hộ nghèo, hộ cận nghèo, đặc biệt những hộ gia đình sinh sống tại các vùng kinh tế khó khăn, vùng sâu vùng xa và hải đảo, như:
Đảng, Nhà nước đã quan tâm, bố trí nguồn lực từ ngân sách nhà nước và huy động nguồn lực toàn xã hội để thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo. Tổng nguồn lực đã được bố trí, huy động để thực hiện Chương trình khoảng 120 nghìn tỷ đồng; bao gồm nguồn vốn Trung ương (chiếm khoảng 35%), vốn huy động xã hội hóa hỗ trợ an sinh xã hội và giảm nghèo của các địa phương (chiếm khoảng 41%), vốn ủng hộ Quỹ “Vì người nghèo” và các hoạt động an sinh xã hội của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp (chiếm khoảng 24%). Cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội thiết yếu, liên kết vùng được ưu tiên đầu tư, nhiều địa phương đã nỗ lực thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn để xây dựng vùng nông thôn mới.
Phong trào thi đua: “Cả nước chung tay vì người nghèo – Không để ai bị bỏ lại phía sau” giai đoạn 2016-2020 và Phong trào “Vì người nghèo – Không để ai bị bỏ lại phía sau” giai đoạn 2016-2020 do Thủ tướng Chính phủ phát động được triển khai sâu rộng. Chính phủ đã phối hợp chặt chẽ với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức thực hiện phong trào thi đua, khơi dậy tinh thần tự lực, tự cường vươn lên thoát nghèo và huy động nguồn lực để thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững. Phát hiện và nhân rộng các điển hình, mô hình giảm nghèo hiệu quả, sáng kiến giảm nghèo, giúp hộ nghèo vươn lên thoát nghèo. Đặc biệt, trong bối cảnh đại dịch Covid-19, Đảng và Nhà nước đã kịp thời có nhiều chính sách hỗ trợ thiết thực, hiệu quả đối với người dân bị ảnh hưởng, nhất là người nghèo.
Các giải pháp nhằm thực hiện hiệu quả giảm nghèo bền vững giai đoạn 2022-2025, bao gồm:
Thứ nhất, các cấp uỷ, tổ chức đảng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác giảm nghèo bền vững; Công tác giảm nghèo là nhiệm vụ chính trị quan trọng, thường xuyên, lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; Công tác giảm nghèo bền vững là nội dung quan trọng trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội hằng năm, Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2021 – 2025 và Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021 – 2030 của các cấp, các ngành, địa phương, đơn vị.
Thứ hai, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu trong công tác giảm nghèo Động viên, hướng dẫn người nghèo, hộ nghèo có kiến thức, kinh nghiệm trong lao động, sản xuất, chủ động vươn lên thoát nghèo, không trông chờ, ỷ lại vào sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội. Coi báo chí là kênh thông tin tuyên truyền quan trọng.
Thứ ba, hoàn thiện chính sách giảm nghèo, chuẩn nghèo đa chiều gắn với mục tiêu phát triển bền vững, bảo đảm mức sống tối thiểu tăng dần và khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người dân; đổi mới cách tiếp cận về giảm nghèo…
Thứ tư, huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực đầu tư cho công tác giảm nghèo. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc bảo đảm nguồn lực, đồng thời huy động tối đa các nguồn lực xã hội tham gia công tác giảm nghèo bền vững..
Thứ năm, tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về giảm nghèo. Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan điều phối về giảm nghèo các cấp theo hướng tập trung, thống nhất đầu mối quản lý
[1] a) Khu vực nông thôn: là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau:
– Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 700.000 đồng trở xuống;
– Có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 700.000 đồng đến 1.000.000 đồng và thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.
b) Khu vực thành thị: là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau:
– Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 900.000 đồng trở xuống;
– Có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 900.000 đồng đến 1.300.000 đồng và thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.
[2] Hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ 2 triệu đồng trở xuống ở thành thị và từ 1,5 triệu đồng trở xuống ở nông thôn; thiếu hụt 3 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản trở lên được coi là hộ nghèo. Hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ 2.000.000 đồng trở xuống ở thành thị và từ 1.500.000 đồng trở xuống ở nông thôn và thiếu hụt dưới 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản dược coi là hộ cận nghèo (Các dịch vụ xã hội cơ bản gồm 06 dịch vụ: việc làm; y tế; giáo dục; nhà ở; nước sinh hoạt và vệ sinh; thông tin).
Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025 thực hiện trên phạm vi cả nước, nhưng trọng tâm là các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo. Chương trình với chính sách hỗ trợ người nghèo xuất khẩu lao động theo hợp đồng được đặt ra là nhiệm vụ quan trọng đối với UBND các tỉnh ven biển và hải đảo, đó là đẩy mạnh hoạt động đưa người lao động sinh sống trên địa bàn các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; hỗ trợ hoạt động đào tạo nâng cao trình độ ngoại ngữ, kỹ năng nghề cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, góp phần tạo việc làm, nâng cao thu nhập và giảm nghèo bền vững, nhất là người lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, người lao động trên địa bàn huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo.
Đối tượng được hưởng chính sách này là người lao động có nhu cầu đi làm việc ở nước ngoài, cư trú trên địa bàn các huyện nghèo (không bao gồm các địa bàn được hưởng cơ chế, chính sách hỗ trợ người lao động đi làm việc ở nước ngoài quy định tại Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030), xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo; ưu tiên người lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo.
Người lao động sinh sống trên địa bàn các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng: tiền đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng nghề, ngoại ngữ; hỗ trợ tiền ăn, sinh hoạt phí, tiền ở trong thời gian tham gia đào tạo (bao gồm cả thời gian tham gia giáo dục định hướng), trang cấp đồ dùng cá nhân thiết yếu; chi phí khám sức khỏe, hộ chiếu, thị thực và lý lịch tư pháp; giới thiệu, tư vấn cho người lao động và thân nhân người lao động; Một phần chi phí đào tạo nâng cao trình độ ngoại ngữ cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo các hiệp định ký giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ nước tiếp nhận, ưu tiên người lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, người dân tộc thiểu số, người lao động sinh sống trên địa bàn huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo.
Xuất khẩu lao động ở những môi trường làm việc tốt không những giúp người lao động tích lũy vốn mà còn cả kinh nghiệm, kiến thức sống để lập thân, lập nghiệp
Thời gian qua, Trung tâm Dịch vụ việc làm thuộc Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh Tiền Giang đã có nhiều nỗ lực trong công tác giải quyết việc làm, tạo việc làm mới cho lao động, chú trọng thực hiện các giải pháp chính sách hỗ trợ người lao động tìm kiếm việc làm, tuyên truyền phổ biến chính sách hỗ trợ tạo việc làm. Phối hợp với các ngân hàng, chủ yếu là Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh để hỗ trợ người lao động vay vốn ưu đãi từ Quỹ Quốc gia về việc làm và nguồn ngân sách địa phương ủy thác qua ngân hàng.
Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh còn tổ chức định kỳ phiên giao dịch việc làm vào các ngày 10 và 20 hàng tháng nhằm tạo thuận lợi cho người lao động trong việc tìm hiểu và đăng ký tuyển dụng cũng như tạo điều kiện cho các nhà tuyển dụng gặp gỡ người lao động để hai bên có cơ hội tìm hiểu, nắm bắt thông tin; chú trọng liên kết với nhiều tỉnh, thành có nhiều doanh nghiệp, khu công nghiệp để cung ứng lao động, giới thiệu việc làm trong và ngoài tỉnh; đồng thời, tuyển chọn và đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng để giảm sức ép về việc làm. Để tạo điều kiện cho lao động được trang bị các kiến thức về ngoại ngữ, Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh thường xuyên mở nhiều khóa đào tạo tiếng Nhật, tiếng Hàn, tiếng Hoa cho khoảng 150 lao động mỗi năm. Theo các cơ quan chuyên môn nhận định, thời gian qua, công tác đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài bên cạnh mục đích kinh tế còn giúp thay đổi tư duy nhận thức và nâng cao kỹ năng, phong cách làm việc của người lao động. Nhờ có sự chủ động phối hợp cùng các doanh nghiệp, lựa chọn các doanh nghiệp uy tín hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu lao động, Trung tâm đã giúp người lao động nhận thức, nắm rõ thông tin về thị trường lao động ngoài nước, chủ động lựa chọn những doanh nghiệp, đơn vị đủ tư cách pháp nhân, có uy tín, công việc ổn định, thu nhập tốt, đồng thời, ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài và phòng tránh thiệt hại cho người lao động. Thời gian qua, Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh đã phối hợp với 12 doanh nghiệp xuất khẩu lao động có uy tín để đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Bác Ái là huyện nghèo của tỉnh Ninh Thuận, cuộc sống của người dân chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp là chính, thu nhập bình quân đầu người chỉ đạt khoảng 17 triệu đồng/người/năm. Trong những năm qua, thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước, huyện xác định xuất khẩu lao động là cơ hội để giúp người dân thoát nghèo nhanh và bền vững, huyện đã chủ động triển khai chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn gắn với xuất khẩu lao động. Nhờ đó, đã giúp hàng trăm lao động ở địa phương đi làm việc ở nước ngoài, chuyển đổi nghề để thoát nghèo bền vững. Từ năm 2010 đến nay, huyện đã đưa gần 300 lao động đi làm việc ở nước ngoài, đã gửi về cho gia đình hơn 17 tỷ đồng. Nhiều gia đình có người đi xuất khẩu lao động nhờ nguồn thu nhập ổn định đã vươn lên trong phát triển triển kinh tế gia đình, xây dựng cuộc sống no ấm.
Có thể nói xuất khẩu lao động được xác định là hướng đi đúng trong công tác giải quyết việc làm, giảm nghèo bền vững và phát triển kinh tế của huyện. Thời gian qua, tất cả các lao động sau khi hết thời hạn làm việc ở nước ngoài trở về đều có cuộc sống ổn định. Để hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động đi xuất khẩu lao động, thời gian tới huyện tiếp tục thực hiện các chính sách hỗ trợ, ưu đãi về vốn vay; đồng thời, phối hợp doanh nghiệp có uy tín về địa phương tuyểnlao động, tuyên truyền, tư vấn, đảm bảo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài, góp phần phát triển kinh tế gia đình. Xuất khẩu lao động ở những môi trường làm việc tốt không những giúp người lao động tích lũy vốn mà còn cả kinh nghiệm, kiến thức sống để lập thân, lập nghiệp.
Với những hỗ trợ tích cực và sự vào cuộc của các cấp, các ngành, chương trình xuất khẩu lao động cho người nghèo trên cả nước nói chung và người nghèo vùng ven biển và hải đảo đang dần khởi sắc, dẫu quá trình triển khai không tránh khỏi những khó khăn, hạn chế cần được nghiêm túc nhìn nhận và rút kinh nghiệm để có hướng đi lâu dài và bền vững, trở thành giải pháp chiến lược hỗ trợ sinh kế bền vững cho người nghèo thay đổi cuộc sống, thực hiện thành công mục tiêu Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững đã đề ra, phấn đấu đến năm 2025, tối thiểu 9.500 người lao động thuộc các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo được hỗ trợ đào tạo; trong đó, có khoảng 5.700 lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (ít nhất 80% hộ gia đình có người đi làm việc ở nước ngoài sẽ thoát nghèo). Hỗ trợ khoảng 1.200 người lao động tham gia các khóa đào tạo nâng cao trình độ ngoại ngữ trước khi đi làm việc ở nước ngoài theo các Hiệp định ký giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ nước tiếp nhận./.